Về Hạnh Bố Thí - Du Li
Về Hạnh Bố Thí
Du Li
(Thế Kỷ 21. USA, 07/1994)
Giới thiệu: Du Li
là bút hiệu của bà Nguyễn Thị Phương Dung, sinh năm 1938 tại Hà Nội và
qua đời năm 1994 tại California. Lúc sinh thời, bà đã đóng góp nhiều
truyện ngắn, tùy bút và thơ trên Thế Kỷ 21 và nhiều báo Việt hải ngoại.
Theo TK21, thơ văn của bà có một cái nhìn "... rất đầm thắm với cuộc
đời, tuy đã nhìn thấy tính chất vô thường trong mọi sự. Cách nhìn trong
sáng từ cái tâm thanh tịnh của Chị như một dòng suối trong, đem đến chút
mát mẻ cho cuộc sống đầy mệt nhọc của chúng ta ..."
oOo
Có một lần đi xe hơi với cậu Nhân từ San
Francisco về Los Angeles khoảng 11 năm trước, cậu đề nghị giúp tôi
phương tiện để "chị muốn làm gì thì làm, như viết sách chẳng hạn. Ðể chị
không phải vội vã đi kiếm việc lo chuyện sinh kế." Hồi đó tôi mới nghỉ
việc với ngân hàng Wells Fargo, dọn về sống với bố mẹ tôi lúc đó đã già.
Tôi từ chối ngay đền nghị đó. Viện nhiều lý lẽ trong đó có lý "chị còn
khỏe mạnh thì đi làm chứ. Sao lại để chú nuôi nhỉ."
Hồi đó cậu mới 31 tuổi, là kỹ sư, không
thích nói chuyện triết ly và hoàn toàn không biết đạo đức là gì, nhưng
cũng không biết từ đâu mà cậu bảo tôi:
"Cả đời chị đã giúp chúng em rất nhiều, bây
giờ em chỉ muốn giúp lại chị một chút thôi, trong lúc nầy khi hoàn cảnh
cho phép. Chị biết cho thì phải biết nhận chứ. Nếu không biết nhận thì
chưa chắc đã biết cho." Tôi tiếp tục bàn luận hăng hái hơn trên suốt
đoạn đường còn lại. Về chuyện "thấy vui khi cho và không nhận vì không
thấy cần, không muốn ỉ lại vào ai, chứ không phải vì tự ái". Không biết
tôi thuyết phục cậu hay thuyết chính mình !
Nhưng câu nói "không biết nhận thì cũng
không biết cho" của cậu bổng dưng in chặt vào đầu tôi, nằm trong đó cũng
với những câu "từ nhân thị đại chúng," "hãy nhìn đời bằng một con mắt
lạnh lùng như tro tàn và một trái tim còn nóng hổi," v.v... mà tôi đã
thu thập trong những sách Thiền từ hồi nào. Rồi có một lần đọc được một
chuyện ngắn của chị bạn viết là từ hồi thầy Thiên Ân sắp mất, chị thường
hay lại thăm Thầy và rất buồn khi thấy bệnh làm thân thể Thầy đau đớn.
Chị thường khắc khoải không biết làm gì để Thầy vui, để Thầy bớt đau.
Một hôm khi chị hỏi: "Thầy muốn con làm gì
?" thì Thầy bảo chị đi mua cho Thầy chiếc mũ đội cho ấm đầu. Hôm đó là
ngày cuối tuần. Ðã 7 giờ tối. Các tiệm lớn đều đóng cửa. Nhưng Thầy muốn
thì chị mua ngay. Chị đành chạy ra tiệm Thrifty lúc đó còn mở cửa mua
chiếc mũ đem về. Thầy nhận và tỏ vẻ vui. Còn chị thì rất vui vì làm được
một việc vừa lòng Thầy. Sau đó ít lâu Thầy qua đời. Và khi chị tới giúp
dọn dẹp phòng Thầy ở cũ, chị thấy trong tủ Thầy có cả tá mũ đủ loại rất
đẹp. Chiếc mũ của chị mua biếu Thầy hôm đó trông tầm thường nhất. Chị
chợt tỉnh ra. Nhìn thì tưởng chị làm CHO Thầy vui. Chị là người làm
phước. Thực ra chính Thầy cho chị một cơ hội để chị được vui một lần
chót với Thầy. Ðể chị được phước báu. Chính chị là người Nhận, người
được, người thụ ơn.
Từ kinh nghiệm đó, chị nhận và biết là
trong cuộc đời nghĩ tới cùng thì nhiều khi người cho lại chính là người
nhận. Người nhận là người cho. Không biết ai là ai. Ai phải cám ơn ai.
Thôi thì cứ cám ơn nhau vậy. Và cám ơn Ðời.
Không hiểu sao tôi lại thích chuyện đó vô
cùng. Lâu lâu đem đọc lại. Ðến nhập tâm. Nhưng trong đời sống hằng ngày
vẫn thích Làm Cho người khác chứ không thích ai làm cho mình điều gì nếu
tôi có thể tránh được. Cái tính nầy phải nói tôi "thừa hưởng" của ông
Bố. Hơn 10 năm sống gần Cụ, tôi nhìn thấy thật rõ ràng. Cả cuộc đời cụ
hy sinh cho vợ con. Giúp đỡ mọi người mà không kể ơn. Ðến lúc già không
còn quyền thế để giúp người như trước thì cụ lại chắt chiu, tiết kiệm
chi tiêu, dành tiền Dưỡng Già để gửi giúp đỡ họ hàng. Cụ cất và xếp
những thư đầy tình cảm ơn nghĩa từ Việt Nam gửi sang đầy chật ngăn kéo.
Nhưng cụ không thích phải nhờ con cái điều gì. Mặc dầu cụ để tôi lái xe
đưa đi bác sĩ, đi nhà thương hay đi thăm mấy bà cô ở Quận Cam nhưng bao
giờ cụ cũng nói "lúc nào tiện." Nghe giọng thấy như miễn cưỡng.
Những năm đầu Cụ không nói cám ơn. Cho mãi
đến gần đây khi cụ đã đọc kinh sách Phật thật nhiều tôi mới nghe Cụ nói
"Thank You" với con cái. Ở nhà cụ vẫn nhất định tự đun lấy nước sôi đổ
vào bình. Tay cụ run run nhiều lúc nước rớt ra ngoài. Tôi và cô em đã
nhiều lần dặn "cậu để đó chúng con làm cho. Không có lỡ bỏng thì phiền
lắm." Bao giờ cụ cũng trả lời "tôi làm được mà". Dần dần tôi thấy rõ là
dù đã ngoài 80, cụ vẫn không thích ai Làm Cho Mình cái gì nếu cụ nghĩ là
cụ còn làm được. Phiền là nhiều lúc cụ ước lượng sai về sức mình. Có
thể là vì cụ vẫn thấy chuyện Cho và Nhận, Người và Ta thật khác biệt,
thật minh bạch như chuyện Ngày và Ðêm chăng ? Tôi thỉnh thoảng cũng than
phiền cụ về chuyện nầy với các em. Vì tôi bắt đầu thấy là những phân
biệt rõ ràng như Trắng và Ðen của mình và người đời, nhiều khi lại chưa
hẳn là như thế.
Bắt đầu biết chuyện phân biệt Cho với Nhận
chỉ là sản phẩm của "cái tôi" đầy tự ái, mà thực ra thì cả hai chỉ là
một. Biết thế mà tôi vẫn bắt gặp mình "giẫy nẫy" lên mỗi khi các em tôi
cho quà, và cứ thanh minh thanh nga là đã từ lâu mình không còn tự ái
nữa. Biết thế mà tôi vẫn ghi sổ ký ức tên ân nhân và nóng lòng tìm cơ
hội trả nghĩa. Cũng lại thấy rõ ràng là mình suy nghĩ và hành xử không
đồng nhất. Cũng lại thấy lòng hơi bực bội mỗi khi nghe cô em út say sưa
nói về chuyện "có đi có lại" (Give and Take) như là một bí quyết giao tế
tối thượng trên cõi đời nầy. Bực nhưng chưa thấy tại sao mình bực. Có
thể là vì chính trong lòng mình đang tranh chấp về chuyện Cho và Nhận,
chuyện Ban Ơn và Thụ Ơn chăng ?
Cũng trong thời gian đó thỉnh thoảng tôi đi
Oxnard thăm những ruộng rau. Ngày Chủ Nhật thiên hạ đi nhà thờ, đi chùa
hay đi Bolsa ăn phở, thì tôi đi mót rau. Những ruộng rau nhà chủ vườn
đã hái xong, bỏ lại những cây rau không đủ tiêu chuẩn đầy ruộng, để mặc
cho đến mùa sau. Tôi tới ngồi giữa ruộng rau ngắm những cây rau còn đầy
sức sống. Những tầu lá phía ngoài xòe thẳng, thật xanh, có gân trắng
chằng chịt như những nét họa tuyệt diệu. Như mạch sống đang trào ra ôm
ấp bông súp lơ trắng tinh lấp ló bên trong đọt lá non chúp đầu vào nhau
như bàn tay chắp búp sen lại Phật. Tôi hít hà trong không khí trong lành
và vùng bao la xanh ngắt vắng lặng. Từ cái yên bình của ngoại cảnh và
nội tâm, tôi thấy niềm tri ân vỡ bung ra ôm trọn vẹn tôi trong cái thinh
không vô cùng đó. Không biết tên ai để nhớ, để có dịp trả ơn thì làm
sao đây ? Gọi là Ðời, là Trời Phật ư ? Nhưng làm sao trả ơn Ðời, ơn Trời
?
Mỗi lần đi như thế tôi thường khuân về hàng
thùng rau đem biếu chùa và hàng xóm. Mọi người cám ơn. Nhưng trong lòng
tôi thầm nghĩ chính mình phải cám ơn họ vì họ đã nhận và tiêu thụ hộ.
Không có người nhận thì làm sao tôi có dịp cho ? Làm sao tôi có cớ tiếp
tục đi mót rau, để dần dần nhìn thấy lòng tham của mình ? Nhặt cho
nhiều. Tội gì, không làm thế thì phí của đi ! Nhưng thực ra thì làm sao
mà phí được khi những cây rau bỏ lại sẽ chết đi, sẽ được cầy lên vùi vào
lòng đất, trở lại làm phân bón cho rau mùa sau.
Biết vậy nên từ đó về sau tôi thường chỉ
nhặt in ít đủ nhà dùng vài ngày thôi. Còn thì ngồi chơi với ruộng rau.
Nhận hưởng nắng ấm trải dài, không gian đầy ắp sức sống và những hỉ xả
của Ðất Trời. Bỗng nhận thấy rằng mình vẫn nhận được rất nhiều, hằng
ngày của Trời Ðất mà không thắc mắc. Nhưng người với người thì tại sao
nhiều vấn đề thường được đặt ra ? Phải chăng vì cái "ngã" còn đứng ở đó
đặt ra những chuyện Người Cho, Kẻ Nhận ? Người có, người không. Người
đứng trên, kẻ đứng dưới, v.v... Mặc dầu Kinh Phật vẫn dạy rằng hạnh Bố
thí là hạnh thứ nhất của người Phật tử. Bố thí trong tinh thần không
còn có người bố thí và kẻ được bố thí. Chỉ có việc bố thí. Ðể không còn
có Người và Ta, không còn tự ái, dù là tự tôn hay tự ti. Vì khi còn phân
biệt giữa Người và Ta tức là còn có Ngã. Còn nhị nguyên. Còn tính toán
hơn thiệt. Còn có đi có lại. Còn rất Ðời. Chưa đi vào đường Ðạo.
Tất cả những cái thấy, những cảm nhận,
những ý nghĩ, những quán chiếu, những suy tư đó nằm đầy ắp óc tôi. Nung
nấu. Tôi hiểu hết mọi sự bằng óc. Nhưng chưa bằng con tim. Tất cả còn
nằm đó, trên óc. Ðược dùng để suy đoán, biện luận, và phán xét. Chưa di
chuyển xuống tim để biến thành máu chạy khắp toàn thân. Tới tận đầu ngọn
tóc, tận kẽ ngón chân để trở thành đời sống và hành động tự nhiên như
hơi thở.
Cho đến khi lâm bệnh phải nằm nhà thương cả
tháng. Ðầu óc nhiều lúc rất mịt mù, mất khả năng suy nghĩ mạch lạc rõ
ràng. Thân thể thì hoàn toàn bất lực. Như chiếc xe hết xăng, hết điện
nằm vạ giữa xa lộ ! Tôi sống được hoàn toàn là nhờ giúp đỡ của mọi
người. Tôi đã nhận rất nhiều, ở từ ông bác sĩ giải phẫu, cô y tá hằng
ngày vào thay thuốc, đến bà đổ rác mỗi ngày, và bao nhiêu người làm khác
để cho thân thể tôi được phục hồi.
Tôi đã nhận rất nhiều từ các em tôi, từ họ
hàng, bạn hữu thân thương những giúp đỡ hữu hình và vô hình trợ lực cho
tinh thần tôi không sụp đổ. Tôi nhận được từ những Linh Thiêng của
Ðất Trời ân huệ cho tâm tôi mở ra. Bằng lòng đón nhận tất cả. Từ cái đau
cho đến tận cùng là cái chết. Bệnh hoạn làm cho thân thể bất lực. Làm
tương lai trở thành hiện tại. Mọi dự phóng không còn chổ đứng. Vì chính
sự sống cũng trở thành bấp bênh, biến hóa khó lường. Trên bờ vực bấp bên
đó, cái ngã nín thở nằm yên. Ðợi chờ. Rồi trong niềm yên lặng vô biên
bên trong, và những thương yêu chân thật bao bọc bên ngoài những hiểu
biết nung nấu trong óc bỗng bung ra. Tìm đường xuống tim.
Kỉ niệm một buổi tối đi nghe giảng. Rồi
thiền với một nhóm người mới gặp lần đầu. Sau khi xả thiền, mọi người
đứng thành một vòng tròn nắm tay nhau theo cách "Nhận - Cho". Tay trái
ngửa lên cho tay người đứng bên trái mình úp xuống. Tay phải úp xuống
tay trái của người đứng bên phải mình. Tất cả mọi người đều làm như vậy
thành vòng tròn. Từng đôi bàn tay khum lại ôm lấy nhau. Mọi người cùng
nhắm mắt trong một phút cho điện (energy) luân lưu giữa những người
trong nhóm. Qua bàn tay mở ngửa, điện nhận được từ bàn tay người bên
trái chạy qua người mình rồi truyền đem cho người đứng bên phải, qua bàn
tay mình úp xuống tay người. Truyền cho nhau thanh điện và tẩy biến
những trược điện của nhau.
Hôm đó ra về không những là thấy lòng vui,
thân khỏe mà còn thấy mình thích quá, thích quá về lối cầm tay kiểu nầy.
Tôi thường vẫn không thích cái kiểu nắm tay nhau, nhất là lại nắm chặt.
Bởi vì thấy như có một sự nắm giữ làm của riêng, và khi một người muốn
buông tay ra, mà gặp người kia không đủ mẫn cảm để nhận biết, thì sẽ có
một sự vẫy vùng nho nhỏ. Lối cầm tay nầy thật nhẹ nhàng và có ý nghĩa.
Lúc đó tôi nghĩ vậy.
Kỉ niệm nầy trở về với tôi nhiều lần trong
lúc nằm trên giường bệnh. Câu nói của cậu Nhân 11 năm về trước trên
chuyến xe đi từ San Fran về Los, cùng với câu chuyện của chị Vân về Thầy
Thiên Ân, và những kinh nghiệm về Nhận và Cho thu thập bấy lâu trong
cuộc đời vẫn cất giữ trong óc, bỗng hiện ra như những mảnh puzzle. Ghép
vừa vào nhau. Dần dần. Rồi một hôm nằm đọc Kinh Phật nói về hạnh bố thí
và giảng tại sao nên bố thí, tôi cảm thấy như mình vừa ráp xong mảnh
puzzle cuối cùng. Bỗng nhìn thấy như một người tù sau bao năm nằm trong
ngục tối được giải phóng để nhìn thấy ánh sáng chói lòa và vạn vật rạng
rỡ của một thế giới con người tự do.
Khi ra khỏi bệnh viện, tôi lên San Jose
tiếp tục làm chemotherapy và dưỡng bệnh tại nhà một người em trai đã có
gia đình. Tôi thoải mái trong sự nhờ cậy rất nhiều ở mấy người em. Một
anh bạn từ thuở trung học với em trai tôi nghe tin cũng ân cần lại thăm.
Anh tình nguyện chở tôi đi bệnh viện khi cần. Khi thấy tôi khen cây
hồng ròn nhà anh, anh cắt cho tôi những chùm hồng vàng cam còn cả lá.
Anh đem cho bánh dẻo vợ làm và cuốn băng nhạc chọn lọc những bài ca Việt
và Mỹ thịnh hành hồi đó khi anh hay xuống chơi với em tôi vào đầu thập
niên 60 ở Phú Nhuận. Tôi không thắc mắc khi nhận quà anh cho. Cám ơn anh
mà không lúng túng. Tôi bỗng nhớ đến hình ảnh Kevin, cháu tôi hồi một
tuổi. Hồi đó tôi đến trông cháu những ngày em tôi đi làm. Ðến giờ ăn,
chú bé nằm u ơ chờ tôi đem sữa hâm lại. Không thắc mắc. Ăn xong chú
buông chai không xuống thảm. Nhìn tôi. Cười. Không lúng túng. Và u ơ đòi
bế ra đứng cửa sổ ngóng mẹ về.
Cũng vẫn là cùng một vòng tròn. Lúc đó chú
Kevin đứng bên phải tôi, ngửa tay cho tay tôi úp xuống. Bây giờ tôi đứng
bên phải anh bạn, tay ngửa lên đón bàn tay anh. Chẳng mấy khác, thì tại
sao không thể cũng nhìn cười như chú Kevin ngày bé. Khi đã biết rằng có
một người khác đang đứng cạnh mình bên phải tay ngửa lên cho tay mình
úp xuống. Khi biết rằng những người đứng bên phải và bên trái mình luôn
luôn đổi chổ hằng giờ hằng ngày trong cùng một vòng tròn, hay sang một
vòng tròn khác. Còn gặp lại, hay sẽ không bao giờ gặp nữa. Biết vậy sẽ
không còn ngại ngùng khi nhận và mong mỏi khi cho. "Ân nghĩa xin nguyện
đền." Những không là tìm cho được ân nhân cũ để trả nghĩa. Mà luôn luôn
giữ đầy trong tấm lòng biết ơn Ðời ơn Người để luân lưu đi những ân huệ
nhận được từ người phía trái sang cho người bên phải. Không giữ lại để
dành. Ðể chuyển hoá những đắng cay của Sân Hận nhận được, thành ngọt
ngào của Hỉ Xả Tha Thứ đem cho người đứng bên. Không sổ sách trong tâm.
Trước Giáng Sinh, cô em gái ở Virginia gửi
cho ít quần áo ấm mặc trong nhà. Cùng với tấm thiệp nhắc nhở tôi là
"everyday should be Christmas and we hope you will be in everyday the
comfort of receiving as well as the joy of giving". Tôi muốn nói với cô
rằng từ ngày bệnh hoạn đến nay, đối với tôi "everyday IS Christmas". Và
tôi đã cảm nhận được niềm vui hồ hởi cả trong hành động Nhận và Cho.
Trong thực tế, lúc nầy tôi không làm được gì Cho ai. Ngay cả mấy con tem
nhiều khi cũng phải nhờ người đi mua. Nhưng sao tôi cảm thấy như có rất
nhiều để cho. Phải chăng vì tôi đã nhận được từ Ðất Trời và Người rất
nhiều ? Mỗi ngày. Nhận được nhiều thì cũng có rất nhiều để cho đi. Vì
tôi chỉ đứng đó để chuyển hóa và luân lưu đi tất cả sau khi đã thụ hưởng
hoặc thêm thắt một chút hương hoa. Rồi có lúc không còn thấy mình đứng
đó để nhận hay cho, hay để thấy vui trong lòng. Mà chỉ thấy một sự luân
lưu nhẹ nhàng. Không ngừng. Tự nhiên như bốn mùa thay đổi. Như lẽ vô
thường của vạn vật.
Bỗng khám phá ra một quyền tự do căn bản và
tối thượng của con người mà cả đời mình không hề biết tới, mặc dầu vẫn
tự hào là người tự do. Bỗng hiểu tại sao trong sáu phép Lục Ðộ, bố thí
là hành (động) đầu tiên của người Phật tử và là hạnh thấp nhất. Nhưng
chính hạnh bố thí cũng có thể là hạnh cuối cùng đưa con người tới giải
thoát. Trọn vẹn. Ðời đời .
Thơ Du Li (27-06-1993)
Chào
Tạm biệt nhé !
Những ân cần tha thiết
Những ngọt ngào
Những chia sẻ đầy vơi.
Nơi đây chúng mình đã ghé sang chơi
Ðã thỏa thuê cả tiếng cười lẫn nước mắt
Thôi nhé !
Tiếng tù và nghe văng vẳng đâu đây
Ðã đến giờ Mẹ gọi
"Chơi thế đủ rồi
về nghỉ đi con."
oOo
An Ủi
Trong tĩnh lặng tôi đã gặp tình yêu Thánh Chúa
Dâng tâm thành lên Ðức Quán Thế Âm
Tôi đang nằm yên
Tận hưởng tình người
Qua những nắm tay giao cảm
Qua ánh mắt chan hoà cả hồn lẫn người tinh khiết.
Tôi đang nằm yên
Nghe cơn đau thể xác
Và thấy hồn mình
Nhập vào vùng tĩnh lặng
Nhìn cơn đau với ấp ủ xót thương
oOo
Gia Tài
Khi ra đi
Sẽ không có gì mang theo
Ngoài tâm thành giải thoát
Và
Không có gì để lại
Ngoài thương yêu
trả lại cho đời
oOo
Du Li (27-06-93)
No comments:
Post a Comment