16 March 2012

HT. Tịnh Không chính thức trả lời những hiểu lầm về dự báo đại nạn năm 2012



Câu hỏi số 1: 
Có một đồng tu tự ý trích đoạn từ tập đĩa này, rút gọn lại thành 1 đĩa, lưu truyền rộng khắp.
HT Tịnh Không trả lời: Đây không phải là một việc tốt, không nên làm như vậy, muốn lưu truyền thì phải lưu truyền trước sau đầy đủ, bởi vì nếu như trước sau người xem đều xem qua hết, thì sẽ không có vấn đề gì xảy ra. Cho nên việc này là thuộc về trích dẫn cắt xén, chỉ nghe cái đoạn đó mà những đoạn trước và sau đều không biết, cho nên sẽ sanh ra một số hiểu lầm. Nếu bạn nghe trọn vẹn qua hết một lượt thì vấn đề được giải quyết rồi. Sự việc này xảy ra vì cho rằng ngày 21 tháng 12 năm 2012 tai nạn “nhất định” sẽ xảy ra. Tôi không hề nói như vậy, tôi trước giờ không hề dám nói từ "nhất định", tôi chỉ nói tôi đã xem qua rất nhiều tin tức bên ngoài nói về việc này, nói là có khả năng xảy tai nạn mà thôi. Thế nhưng dù tin tức bên ngoài nói như vậy, tôi cũng không cho là quan trọng, tại vì sao? Phật đã nói với chúng ta: Pháp vốn dĩ là không cố định, không có định pháp, tại vì sao không có định pháp? Bất cứ sự việc gì trên thế giới đều đang thay đổi mỗi ngày, không có gì là bất biến.

Vận mạng của con người cũng là như vậy, các vị xem “Liễu Phàm Tứ Huấn” thì liền biết được, tiên sinh Viên Liễu Phàm lúc 15 tuổi đã được Khổng tiên sinh đoán mạng rất chính xác, đoán đúng được nhiều năm, đoán cuộc đời ông khi ông đến 53 tuổi thì mạng chung. Trong khoảng 20 năm liên tiếp, mỗi năm tiên sinh Liễu Phàm đều có trải nghiệm nhiều sự việc hoàn toàn đúng với lời tiên đoán của Khổng tiên sinh cho nên tâm lý của ông buông xuôi, không khởi một ý niệm nào, ông nói tôi có ý niệm cũng không ích gì, vận mạng đã định rồi. Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt. Khởi lên một niệm thiện thì vận mạng của bạn được thêm vào một điểm tốt, khởi lên một niệm ác thì bị giảm đi một điểm, đại ý là như vậy, nó ngày ngày có thêm bớt cộng trừ, bạn làm sao có thể nói nó là "nhất định" được chứ? Phật cũng không thể nói nhất định, cái đạo lý này chúng ta phải hiểu.

Hiện tại, các nhà khoa học ngành vật lý lượng tử đã phát hiện ra một số bí mật của vũ trụ, đã báo cáo với chúng ta, chúng ta sau khi xem rồi, nhận thấy báo cáo của họ hoàn toàn tương đồng với những gì trên Kinh Phật đã nói, trong đó có một nguyên tắc chung, chính là không có định pháp, Phật đã nói: "Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh". Hiện tại khoa học gia lượng tử đã chứng minh. Cái tâm tưởng đó trước một giây cùng sau một giây là không như nhau, thì bạn làm sao có thể nói là "nhất định"? Cách nói khẳng định như vậy thì đã sai quá nghiêm trọng rồi, chúng ta phải biết mọi thứ mỗi ngày đều đang thay đổi. Tai nạn đó từ nơi nào mà sanh ra? Là từ nơi ý niệm bất thiện mà tạo thành. Chúng ta một niệm hướng thiện, tai nạn liền được hóa giải rồi. Cho nên năm trước có mấy vị khoa học gia tổ chức hội nghị ở Sydney, học viện của chúng ta có phái 8 đồng tu đến tham gia, pháp sư Định Hoằng cũng có tham gia hội nghị này, nghe qua báo cáo của họ. Ngày đầu tiên thì nghe qua báo cáo những thành tựu đạt được của các chuyên gia vật lý lượng tử, suốt ngày hôm sau thì chuyên đề thảo luận vấn đề của năm 2012, đến sau cùng là do một vị tiến sĩ Hoa Kỳ làm báo cáo tổng kết.

Khi tổng kết họ nói với chúng ta, năm 2012 không phải là ngày tàn của thế giới, ngày 21 tháng 12 không phải là ngày tận thế, hy vọng cư dân trên địa cầu từ nay đến thời điểm đó có thể thức tỉnh, mọi người đều có thể làm đến được "bỏ ác dương thiện, cải tà quy chánh, đoan chánh tâm niệm", tai nạn này liền sẽ không còn, liền có thể hóa giải. Cái đạo lý này là căn cứ từ lý luận của lượng tử học mà biết được, chính là tất cả pháp, giống như Phật đã nói với chúng ta: "Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh", nó là từ ý niệm, một niệm ác của chúng ta khởi lên là khởi nguồn cho tai nạn xảy ra, khi một niệm thiện khởi lên, tai nạn này liền không có, hoàn toàn giống như Phật pháp đã nói. 

Cho nên không thể nói "nhất định" có thể xảy ra, nói "nhất định" xảy ra ở vào mức độ nào đó cũng đều không thể nói, mỗi ngày đều có tăng giảm thêm bớt. Nếu như cái niệm ác này của chúng ta mà quá nhiều thì tai nạn này có thể sẽ xảy ra sớm hơn, không phải là ở vào ngày hôm đó, có thể sớm hơn nửa năm, có thể sớm hơn mấy tháng v.v…Ngược lại, nếu như khi niệm thiện của chúng ta nhiều, các ác niệm bị đè phục, vậy thì tai nạn sẽ bị đẩy lùi, có thể lùi lại vài năm, lùi lại mười mấy năm, nó sẽ lùi lại, cho nên nó không nhất định. Khi ác niệm của chúng ta hoàn toàn không có, chỉ có niệm thiện khởi lên thì tai nạn này liền sẽ không có, hoàn toàn hóa giải hết. 

Cho nên bí mật của niệm lực gần đây được khoa học gia phát hiện, việc này rất có đạo lý. Những gì Phật nói ra 3000 năm trước, hiện tại 30 năm gần đây được các nhà khoa học gia phát hiện, hoàn toàn giống như Phật đã nói trong Kinh điển. Ngày trước chúng ta không xem thấy báo cáo của khoa học, đối với những gì Phật nói đều tin tưởng, Phật không vọng ngữ, Phật nói ra chúng ta tin tưởng, thế nhưng cái đạo lý này không thông, luôn là có một chút nghi hoặc. 99% tin tưởng Phật, vẫn còn có một phần trăm nghi hoặc, đó cũng vẫn là nghi hoặc. Ngay khi chúng ta xem thấy báo cáo của các nhà khoa học, cái nghi hoặc này mới dứt hết, chúng ta mới hoàn toàn tin tưởng, không có chút nào nghi hoặc. Cho nên ý niệm làm chủ tất cả, cái đạo lý này chúng ta không thể không biết.

Phần tiếp theo câu hỏi:
…Cho đến có một số người nghe tin này buông bỏ tất cả thế giới, niệm Phật vãng sanh, từ bỏ công việc, gia đình, hoặc tập trung lại một chỗ, hoặc ở trên núi, hoặc ở riêng một mình trong phòng v.v…mọi người tập trung lại cùng nhau không ăn, không uống, không ngủ, muốn học theo pháp sư Oánh Kha niệm Phật vãng sanh, và còn nói đây là phương pháp tốt mà lão pháp sư dạy cho chúng ta tránh khỏi tai nạn năm 2012, tạo ra ảnh hưởng rất xấu cho quốc gia và xã hội. Trong tâm đệ tử có nghi hoặc, kính xin lão pháp sư từ bi giải thích. 
HT Tịnh Không trả lời: Đây là do cắt xén lời văn mà sanh ra, nếu đem mấy tập mà tôi giảng trước và sau đại khái có khoảng 6 đến 7 tập, sau khi bạn xem qua hết, thì vấn đề này liền được giải quyết. Không phải là như vậy, trên kệ khai Kinh có nói "nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa", ý nghĩa mà tôi giảng các vị không hiểu rõ, các vị đã hiểu sai rồi, đó là cái ý của chính các vị, không phải là ý của tôi. Nếu như học Phật chân thật vì chính mình, vì tự tư tự lợi, Thích Ca Mâu Ni Phật lại hà tất phải giảng Kinh dạy học suốt 49 khổ cực như vậy để làm gì, tại vì sao Ngài không vào Đại Niết Bàn sớm? Tại vì sao không đi đến thế giới Cực Lạc sớm hơn? Lại đi làm việc khổ cực này, có ý nghĩa gì, nhà Phật nói Từ Bi ở đâu!

Học Phật, tôi thường hay nói, học Phật việc tốt nhất trước tiên chính là gì: Biết được sinh mạng là vĩnh hằng, ta không hề chết, “chết” - thân thể này thì có sanh diệt, ta thì không có sanh diệt. Thông thường chúng ta nói ta là cái gì? Linh hồn là ta, người nước ngoài cũng thừa nhận, trong Phật pháp gọi là thần thức, đây là cái ta chân thật. Nếu như nói cái ta này có sanh tử, còn đi đầu thai, còn có cái gì là kiếp trước đời sau…Không hề có. Cho nên vấn đề chính ngay chỗ này. Chân thật từ nơi Phật pháp nói, Phật pháp vẫn không gọi là linh hồn, gọi là Linh Tánh. Kỳ thật nếu gọi là linh hồn thì cái hồn đó tuyệt nhiên không linh, nếu như là linh thì nó sẽ chọn thế giới Cực Lạc để đi, hà tất phải đi vào sáu cõi luân hồi chứ? Nó không linh! Không nên gọi là linh hồn mà gọi là mê hồn, quyết định không phải là linh hồn. 

Khổng Tử nói rất hay, Khổng Tử đã nói ở trong "Dị Hệ Từ", "Du Hồn Vi Biến", trong đây Ngài nói được rất hay. Bởi vì hồn đích thực là biến hóa của nó quá lớn, tốc độ quá nhanh, nói du hồn là nói được rất chính xác. Có thể thấy được Khổng Tử không phải không biết đối với việc này, ông nói "Du Hồn Vi Biến", chính là nói sáu cõi luân hồi, nói "Tinh Khí Vi Vật", đó chính là nói quan hệ của hiện tượng tinh thần cùng hiện tượng vật chất, ngày nay khi chúng ta từ nơi tri thức của lượng tử lực học để giải thích hai câu nói này thì rất dễ dàng hiểu rõ. Hiện tượng vật chất đích thực là do hiện tượng tinh thần biến hiện ra, cho nên gọi là “tinh khí vi vật, du hồn vi biến”. 

Mười pháp giới Y Chánh Trang Nghiêm, Chánh Báo chính là du hồn vi biến, căn cứ vào cái gì để thay đổi? Căn cứ vào ý niệm của chính mình. Cho nên khi ý niệm sanh ra, thánh nhân người xưa nói rất hay: “bổn tánh vốn thiện”, Phật nói lại càng hay hơn: “tất cả chúng sanh vốn là Phật”, Thích Ca nói vốn dĩ là Phật, tổ tông chúng ta nói bổn tánh vốn thiện, là một ý nghĩa. Vốn thiện không phải là thiện của thiện và ác, “vốn thiện” – cái thiện đó là tán thán, nó quá viên mãn, không có chút kém khuyết nào. Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói một câu "tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai", đây chính là bổn thiện. Có trí tuệ viên mãn, có đức hạnh viên mãn, có tướng hảo viên mãn, tướng hảo là thuộc về phước báo, cho nên tướng hảo phước báo đều là viên mãn, đây là “vốn thiện”.

Mê mất đi tự tánh thì trí tuệ đức tướng của chúng ta liền bị bóp méo đi, bị biến chất. Có khởi được tác dụng hay không? Có. Tác dụng gì vậy? Hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta chính là tác dụng, thế nhưng tác dụng này đã bị biến chất rồi. Gíao dục của Phật là gì? Không gì khác hơn, dạy bảo chúng ta làm thế nào để quay về với tự tánh, giáo dục truyền thống của chúng ta là dạy cái gì? Dạy chúng ta quay về với bổn tánh, thì sẽ trở thành thánh nhân. Nếu quay chưa về được đến nơi, đó là hiền nhân. Đang trên đường quay trở về, đó gọi là quân tử. Ở trong Phật pháp cũng là như vậy, quay về được viên mãn thì gọi là Phật Đà, quay về chưa được đến nơi, thì gọi là Bồ Tát , đang trên đường quay về đó là A La Hán, cùng đồng một đạo lý. Đây là thánh học, học vấn của thánh nhân, chân thật làm đến được viên mãn cứu cánh triệt để. 

Cho nên "Phật pháp ở thế gian thì không thể lìa thế gian giác".Câu nói này quan trọng, hay nói cách khác lìa khỏi thế gian thì bạn không thể giác, bạn không rời thế gian thì bạn mới có thể giác, làm sao mà bạn có thể từ bỏ đi công việc, buông bỏ gia đình? Đó là bạn không gánh vác trách nhiệm, bạn học Phật hiểu biết không thấu triệt, chỉ nghe lời truyền miệng, bạn không nên có cách làm như vậy. Xuất gia có thể thành Phật là đúng, Thích Ca Mâu Ni Phật đã biểu diễn cho chúng ta xem thấy, xuất gia thành Phật nhưng tại gia cũng có thể thành Phật. Khi Phật Thích Ca còn tại thế, người bên ngoài không biết, người học Phật thì biết, có hai vị Phật đồng thời xuất hiện, một là Thích Ca Mâu Ni Phật, vị thứ hai là một vị Phật ở tại gia, cư sĩ Duy Ma Cật, người không học Phật thì không biết. Cư Sĩ Duy Ma Cật nói pháp, Phật Thích Ca phái Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất…những vị đại đệ tử này đến nghe Kinh, đến học tập với cư sĩ Duy Ma Cật. Nhìn thấy cư sĩ Duy Ma Cật, đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng, lễ tiết cũng hoàn toàn giống như thấy Phật, việc này các vị xem qua Kinh Duy Ma Cật thì biết. 

Mục đích nói rõ cái gì? Phật pháp là sư đạo, trong sư đạo lão sư là lớn nhất, chỉ cần họ có thân phận là lão sư, bạn muốn học tập với họ, vậy thì bạn liền phải tôn sư trọng đạo. Người xuất gia cùng học với người tại gia, người tại gia là lão sư. Ba vị lão sư của tôi, trong ba vị này lão cư sĩ Lý Bĩnh Nam chính là cư sĩ tại gia, tôi xuất gia học Phật với ông, đối với ông cũng là lễ bái, không thể nói ông là người tại gia, ta là xuất gia, cao hơn so với ông một bậc, vậy thì xong rồi! Đây là việc cần phải nên hiểu, không thể nào không biết.

Với người học Phật tại gia, thì bạn phải dùng phương thức của tại gia; xuất gia học Phật, bạn chân thật là xuất gia, bạn phải đem việc gia đình của bạn xếp đặt cho tốt. Xuất gia, việc quan trọng nhất, phải có sự đồng ý của cha mẹ, nếu như bạn còn có vợ, con cái, vợ và con cái của bạn phải đồng ý, không đồng ý thì bạn không thể xuất gia, việc này trên giới luật đều có qui định, cho nên không thể không gánh vác trách nhiệm. Học Phật chính là học làm ra một tấm gương tốt, cá nhân bạn ở trong xã hội là một tấm gương tốt, làm tấm gương tốt cho mọi người, bạn ở gia đình, gia đình của bạn là một tấm gương tốt cho tất cả hết thảy gia đình trên thế giới, bạn từ nơi nghề nghiệp, không luận là ở nơi nghề nghiệp nào, bạn ở nơi nghề nghiệp đó đều là tấm gương tốt nhất, là mô phạm. 

Thích Ca Mâu Ni Phật nghề nghiệp của Ngài là giáo dục, là giáo học, ở trong giáo dục Ngài đích thực làm đến được là một thầy giáo tốt nhất, giáo học chưa từng kém khuyết buổi nào, 49 năm như một ngày. Thái độ giáo học cũng giống như Khổng Tử, không phân quốc tịch, không phân chủng tộc, không phân tôn giáo tín ngưỡng, người đến thì không từ chối, người đi thì không lưu giữ, hơn nữa đều xem là nghĩa vụ, không có nhận học phí, thời gian học tập của bạn dài ngắn tùy theo ý bạn. Cho nên bằng lòng trọn đời đi theo Thích Ca Mâu Ni Phật, việc này trên Kinh điển có ghi chép: 1255 người, gọi là chúng thường tùy còn số lượng không đi theo trọn đời, thân cận Phật Đà mấy ngày, mấy mươi ngày, hai ba năm thì rất nhiều, số đó thì không có ghi chép. Đủ thứ hạng người đi theo học với Ngài, không có ai là không có được đại hoan hỉ, pháp hỉ sung mãn, việc này nhất định phải biết. 

Nói không ăn không uống, Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi ngày đi ra ngoài khất thực, Ngài còn phải ăn cơm, Ngài còn phải nghỉ ngơi. Thời xưa Ấn Độ ngày đêm chia làm sáu thời, ngày ba thời, đêm ba thời, buổi tối thời gian nghỉ ngơi là nửa đêm, tính theo thời gian hiện tại là từ 10 giờ tối đến 2 giờ khuya, bốn giờ đồng hồ, thời gian này là nghỉ ngơi, đời sống rất có qui luật, tại gia học Phật cũng không ngoại lệ. Cho nên nói là muốn học theo pháp sư Oánh Kha thì không học được. Tại vì sao? Bạn không có loại tâm chân thành đó của ông, bạn không có cái tâm cung kính đó của ông, trong ba ngày thì ông có thể niệm ra được Phật, bạn 30 ngày cũng không niệm ra được, không tin thì bạn cứ thử xem, chân thành đến tột điểm! Ông cũng là có một nghịch tăng thượng duyên giúp ông. Vì sao vậy? Ông đã tạo ra rất nhiều tội nghiệp, những tội nghiệp đó đều là tội nghiệp đọa địa ngục, ông sợ đọa địa ngục, cho nên bức bách ông không thể không chân thành, vậy thì phải vạn phần chân thành, vạn phần chân thành thì tội của ông liền sám hết. 

Ngày nay chúng ta còn có nhiều vọng tưởng tạp niệm như vậy ở trong tâm thì bạn làm sao có thể niệm ra được Phật? Không thể nào! Nếu như tâm thật chân thành rồi, thì bạn sẽ không viết gởi đến đây những lời này, một vọng niệm cũng không có. Bạn vẫn còn viết hỏi tôi nhiều thứ đến như vậy, có thể thấy rằng công phu của bạn chưa được. 

Câu hỏi số 2: 
Lão pháp sư ở tập 95 "Khoa Chú" khai thị nói: “…Các vị không tin, tôi tin, các vị không làm, tôi làm”. Ngài nói đến chữ tin ở đây là có ý nghĩa gì? Và làm ở đây là làm việc gì? Mong lão pháp sư từ bi giảng giải.
HT Tịnh Không trả lời: Cho nên văn trước và sau bạn không có xem nên bạn không biết. Chỗ này một việc đơn giản nhất chính là nhân quả. Trong nhân quả mới có kiết hung họa phước, có thiện ác, có họa phước. Sự việc này không cần người khác phải nhắc nhở chúng ta, chính mình rất rõ ràng. Trong Kinh Dịch có câu "nhà nào làm nhiều việc thiện ắt dư thừa việc vui, nhà nào làm nhiều việc ác ắt dư thừa việc xấu". Bạn phải chân thật hiểu được hai câu nói này, bạn sẽ yêu quốc gia, bạn sẽ yêu dân tộc này. Vì sao vậy? Ngàn vạn năm trước lão tổ tông chúng ta đã tích thiện tích đức. Ngày hôm này tai nạn trên cả thảy địa cầu này không phải là chúng ta nói, mà là người nước ngoài nói. 

Bạn xem tin tức về tai nạn này từ đâu mà ra? Từ phát thanh truyền hình mà có, môi giới truyền hình đều là người nước ngoài. Ngày 21 tháng 12 năm 2012, cái tin tức này là lời dự đoán của người Maya cổ xưa ở Châu Mỹ mà ra, người trên toàn thế giới đều biết. Cho nên năm nay đến cái năm này, mọi người xem thấy tai nạn nhiều đến như vậy, thế giới động loạn đến như vậy, lòng người hoang mang. Bao nhiêu người muốn tìm một chỗ an toàn nhưng không nơi nào là thật an toàn cả mà chính tâm thiện của bạn là an toàn nhất, không có ác niệm, đó là chỗ an toàn nhất. 

Nếu như hưởng cái đức của tổ tông, ở trên toàn thế giới, tổ tông của chúng ta chân thật là hành thiện tích đức, dùng luân lý, đạo đức, nhân quả để giáo huấn chúng sanh. Người Trung Quốc đã phế bỏ đi lời dạy của lão tổ tông, không cần nữa, nhất là trong vòng 200 năm qua. Người của 200 năm nay có lỗi với lão tổ tông, mở đầu cho việc này chính là Từ Hi Thái Hậu. Cho nên chúng ta thường hay nghĩ, Từ Hy Thái Hậu trình độ văn hoá không cao, tự làm theo ý mình. Triều nhà Thanh từ khi mở nước rất tôn kính đối với Phật, đại đức trong Phật môn đều gọi là quốc sư, tự xưng là đệ tử, thường hay thỉnh giáo với những vị thầy này, chỉ có Từ Hi Thái Hậu, đem phế bỏ đi việc này, không còn mời những chuyên gia học giả của “Nho-Thích-Đạo” vào trong cung để dạy học nữa, việc này là do Từ Hi Thái Hậu phế bỏ. Khi gặp khó khăn thì sao? Từ Hi Thái Hậu mê tín, dựa vào xem bói đoán quẻ, hỏi thần linh, như vậy mà mất nước. 

Việc này là năm xưa đại sư Chương Gia nói với tôi. Cho nên tôi mới biết rõ được triều Mãn Thanh mất nước là do nghe theo lời của quỷ thần, nếu bà nghe theo những cao tăng đại đức, những bậc có trí tuệ chỉ đạo mà nói, thì sẽ không có cái kết quả như vậy. Từ Hi Thái Hậu tự xưng là lão Phật gia, bạn thấy những tổ tông của bà đều xưng là đệ tử đối với Phật, còn bà thì biến thành lão Phật gia, Phật Bồ Tát đều bị giáng xuống một cấp, bà ở trên cả Phật Bồ Tát. Cái việc làm này có ảnh hưởng quá lớn, trên làm dưới làm theo, từ quan viên chính phủ cho đến dân gian, đối với truyền thống văn hoá, đối với Phật pháp liền xem nhẹ, hạ thấp xuống, lòng tin dần dần bị suy yếu. 

Cho nên đến khi Mãn Thanh mất nước, sau khi Dân quốc thành lập, xã hội Trung Quốc vẫn động loạn, luôn luôn bất ổn trong nhiều năm, sau này chân thật mới có được sự ổn định. Cho nên truyền thống văn hoá không có người giảng, không có người học, thế là chúng ta ngày nay rất xa lạ đối với truyền thống văn hoá tổ tiên, không hề biết gì đối với Phật pháp. Khi chúng ta còn trẻ cũng là như vậy, không tin tôn giáo, nhất là đối với Phật giáo, bởi vì xem thấy trong chùa miếu cúng quá nhiều vị thần, đây chính là tạp thần giáo, đa thần giáo mà trong các tôn giáo đã nói, tôn giáo cao cấp chỉ có một thần. Từ đây đã tạo ra nhiều quan niệm sai lầm nghiêm trọng, làm cho chúng ta không có cảm tình đối với Phật giáo, cũng không muốn bước vào chùa miếu, những định kiến như vậy cũng rất là lâu rồi…

Tôi học Phật, đã nói qua cho các vị nghe rất nhiều lần, tôi học triết học với giáo thọ Đông Phương Mỹ, nhờ vào lão sư Ngài giảng cho tôi một bộ "Triết Học Khái Luận", cái chương sau cùng là triết học Phật Kinh. Vào lúc đó tôi cảm thấy vô cùng Kinh ngạc, nói Phật giáo là tôn giáo, là tôn giáo cấp thấp, thì nó làm gì có triết học, lão sư Phương nói với tôi, anh còn quá trẻ nên chưa hiểu. Ông nói Thích Ca Mâu Ni Phật là nhà đại triết học vĩ đại nhất trên thế giới, việc này từ trước đến giờ tôi chưa từng nghe qua, không có người nào giảng nói, ông nói triết học Kinh Phật là nền triết học cao nhất của triết học thế giới, đây là nguyên văn lời nói của ông nói với tôi "Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của nhân sanh".

Tôi từ chỗ này mà hiểu rõ ra, đem tất cả cách nhìn sai lầm của tôi từ quá khứ hoàn toàn thay đổi lại. Lão sư nói với tôi, ngày nay triết học Kinh Phật không có ở trong chùa miếu. Tôi hỏi vậy ở đâu? Ông nói ở trong Kinh điển. Ông nói ngày trước những xuất gia đều là người có học vấn, có đức hạnh, chân thật là đại đức, những người xuất gia hiện tại thì không học Kinh điển, Kinh điển thì họ cất giữ ở nơi đó, họ không phiên dịch, họ không xem, ông nói nếu anh muốn học thì phải từ trong Kinh điển mà thâm nhập. Những lời nói này đã khởi lên tác dụng rất lớn đối với tôi, nếu như ông không nói những lời này trước, tôi đến chùa miếu tìm người xuất gia thì liền sẽ mất lòng tin đối với lão sư. 

Cho nên tôi liền thỉnh giáo với thầy, tôi hỏi: Thưa thầy, triết học Phật Kinh thầy học được từ nơi đâu? Ông nói với tôi, thời kỳ kháng chiến ở trong thư viện đại học trung ương, có một lần bị bệnh, bạn bè giới thiệu ông đến núi Nga Mi để dưỡng bịnh, núi Nga Mi rất là thanh tịnh, ở ngay trong chùa để dưỡng bệnh. ông nói trong chùa không có báo chí gì cả, vào lúc đó thiết bị rất kém, ngay đến điện cũng không có, ông nói chỉ có xem Kinh Phật, rảnh rỗi không việc gì thì lấy Kinh Phật ra để tiêu khiển, xem trong đó nói cái gì, càng xem càng có hứng thú, xem đến ghiền luôn, nguyên do là như vậy. 

Tôi theo lão sư hơn 20 năm, tôi xem thấy trên giá sách của ông đều có để Kinh Phật, không có ngày nào mà ông không xem Kinh Phật, tôi mới tin tưởng ông. Nếu ông muốn đem Kinh Phật giới thiệu cho tôi mà tôi không xem thấy ông ngày ngày xem Kinh Phật thì tôi không có lòng tin đối với ông. Ông thật có xem, ngày ngày xem. Hơn nữa, buổi tối khóa trình dạy trong trường học đều là Kinh Phật, chủ đề chính ở trường đại học Đài Loan là giảng Phật học Ngụy Tấn, Phật học Tùy Đường, Phật học Đại Thừa, ông dạy những giáo trình lớn này. Từ sau khi nghỉ dạy ở đại học Đài Loan, đại học Bổ Nhân mời ông đi, ông ở lớp Tiến Sĩ Bổ Nhân khai giảng triết học Hoa Nghiêm. Hơn 20 năm cuối đời thảy đều giảng triết học Phật Kinh, vậy có thể không tin tưởng sao? Sau cùng ông quy y, thầy chứng minh quy y cho ông là Hòa Thượng Quảng Khâm. Chính ông lúc đó cũng đã có bệnh rồi, là vào năm 1977. 

Tôi đến Hong Kong để giảng Kinh, lần đó tôi đến là giảng luôn 4 tháng. Trước khi đi tôi đến thăm ông, ông liền nói với tôi, thân thể, tinh thần đều kém hơn xưa nhiều, ngày trước làm việc không biết mệt, hiện tại ông cảm thấy có chút mệt. Ông rất là lạc quan, xem rất nhẹ đối với sanh tử. Tôi ở Hong Kong 4 tháng, giảng tròn 4 tháng, trước 3 ngày khi tròn 4 tháng thì ông ra đi. Đài Bắc gọi điện nói với tôi, lão sư Phương qua đời. Cho nên Kinh khi vừa giảng xong, lập tức trở lại Đài Loan, tham gia nghi thức cáo biệt ông, chính là nghi thức truy điệu, giúp đóng quan cho ông. Năm đó ông 75 tuổi, rất đáng tiếc, nếu như ông sống thêm 10 năm nữa thì sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Đài Loan. Ông chánh thức quy y với sự chứng minh của lão Hòa Thượng Quảng Khâm, trở thành đệ tử tại gia của nhà Phật, ông ra đi qúa sớm, thật là đáng tiếc. Tính đến nay, tôi học Phật được khoảng 61 năm, giảng Kinh dạy học khoảng 54 năm. Tôi xuất gia là do đại sư Chương Gia chọn cho tôi, hơn nữa Ngài bảo tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, mấy câu nói này rất quan trọng quyết định cả đời của tôi. Tôi biết được Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời dạy học, cho nên tôi từ khi xuất gia thì bắt đầu ngày đó dạy học, những pháp sự Kinh sám trong đạo tràng tôi không hề làm qua. 

Khi xuất gia, tôi dạy học ở Phật học viện, học viện tam tạng ở chùa Thập Phổ Đài Bắc, có lúc cũng nhận lời mời ở bên ngoài, đều là giảng Kinh ở các nơi trên đảo Đài Loan.Vào thời gian đó, thời gian giảng Kinh tương đối ngắn, chỉ một tuần hoặc mười ngày hoặc nửa tháng, dài nhất là không quá một tháng. Chính mình cả đời không có đạo tràng, lão sư Lý dạy tôi cả đời không mong cầu ở người, khó khăn thế nào cũng không cầu người. Cả đời sống được thanh tịnh. Thích Ca Mâu Ni Phật đã làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta thấy cả đời không có đạo tràng, cả đời không có tín đồ. Tôi không có đệ tử xuất gia, những người xuất gia trẻ tuổi theo học với tôi, quan hệ của chúng tôi là bạn đồng học. 

Cái đạo tràng ở Úc Châu là do sau khi bà Hàn Quán Trưởng vãng sanh, một số thanh niên xuất gia không có nơi để ở, không có nơi để đi, chúng tôi xây dựng một đạo tràng ở Úc châu để cho họ ở, ở nơi đó tôi tạm nhận lấy cái danh là viện trưởng để tiện lợi cho họ làm việc. Tôi có quan hệ rất tốt với quan viên chánh phủ địa phương cùng chánh phủ liên bang Úc Châu, dùng danh nghĩa của tôi làm việc thì thuận tiện. Hiện tại tôi cũng giao hẳn nơi đó cho họ luôn rồi, tuổi tác lớn rồi, hướng dẫn 10 năm cũng đủ rồi, đôi bên đều quen biết. Ngay trong 10 năm, không những quan hệ tốt với chánh phủ mà cũng quan hệ rất tốt với cư dân địa phương. Cho nên họ ở nơi đó tu hành, chỉ cần cố gắng dụng công, tôi nghĩ tương lai sẽ có thành tựu, bản thân tôi tuổi tác lớn như thế này rồi, chỉ có một việc làm là giảng Kinh, những việc khác tôi không làm, tôi mỗi ngày giảng Kinh bốn giờ đồng hồ, giảng bốn giờ đồng hồ không phải là việc đặc biệt gì, giảng Kinh thì không thể ngừng nghỉ. Đây đều là học tập từ Thích Ca Mâu Ni Phật, Thế Tôn đã làm ra tấm gương tốt cho chúng ta học tập.

Cho nên việc chúng ta làm chính là giảng Kinh, cùng chia sẻ với mọi người. Đọc Kinh, tổ sư đại đức dạy bảo chúng ta tùy văn nhập quán, phải đem những cái ý nghĩa từ trên Kinh điển đã lí giải được biến thành tư tưởng của chính mình, biến thành đời sống của chính mình, thì chân thật có được thọ dụng. Nếu như không thể biến thành cái của chính mình, là của Thích Ca Mâu Ni Phật, của người khác, không liên quan gì với ta? Ta phải đem cái của Ngài biến thành cái của chính mình, gọi là sống học tập và ứng dụng thì chân thật có được hưởng thụ, vậy thì đúng rồi, ở trên Kinh Phật nói với chúng ta một câu rất là quan trọng, "Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh", hay nói cách khác thế xuất thế gian, tất cả mọi việc đều là chính tâm mình sanh ra, tâm tưởng có thể làm chủ tể tất cả biến hóa, từ tâm tưởng mà sanh ra. 

Cho nên Phật lại nói "chế tâm nhất xứ vô sự bất biện", lời nói này đã được nhà lượng tử lực học hiện đại chứng minh rồi. Bạn muốn hỏi tôi tin, tin cái gì, làm cái gì. Tôi học Phật được 40 năm, xin nói với các vị khi đó mới tin vào Tịnh Độ, Tịnh Độ chân thật gọi là pháp khó tin. Tôi giảng Kinh 54 năm, 30 năm đầu tôi không tin vào Tịnh Độ, tôi khuyên người ta tu Tịnh Độ mà chính tôi thì không tin Tịnh Độ. Dạy học cái gì? Học Kinh Hoa Nghiêm, giảng Kinh Hoa Nghiêm , giảng Pháp Hoa, giảng Lăng Nghiêm, giảng Bát Nhã, giảng những đại Kinh này dần dần nhận biết Tịnh Độ, mới chân thật biết được câu A Di Đà Phật này là đại biểu cho ý nghĩa gì. Danh hiệu này là hoàn toàn dịch âm từ tiếng Phạn mà ra, dich thành chữ Trung Quốc, có thể dịch, thế nhưng tại vì sao không dịch? Thứ nhất nó hàm nghĩa quá nhiều, ý nghĩa của nó quá phong phú, chúng ta dịch thành 4 chữ không cách gì bao hàm hết. Nghĩa thứ 2 là có ý tôn trọng, có 2 ý này ở trong đó. Muốn dịch, A dịch là vô, Di Đà dịch là lượng, Phật dịch là giác. Ý nghĩa này là gì? tôn giáo nước ngoài tán thán thần, toàn tri toàn năng, không gì không biết, không gì không thể, A Di Đà Phật là ý nghĩa này. Đó là ai vậy? đó là chính bạn. Chỗ này thì không giống như tôn giáo, tôn giáo cho toàn tri toàn năng là thần, Phật giáo toàn tri toàn năng là chính bạn, chính là bản tánh của bạn, người Trung Quốc gọi là bản tính của bạn, là chính bạn. Hiện tại bạn mê rồi, nếu bạn giác ngộ, thì chính là như vậy, không sai chút nào. 

Tôi giảng Kinh Hoa Nghiêm, giảng đến được phân nửa, có một hôm, bỗng nhiên tâm ý trào dâng, tỉ mỉ mà tra xét, Văn Thù, Phổ Hiền là học pháp môn gì? Môn sinh đắc ý của Văn Thù, Thiện Tài đồng tử, ông học pháp môn gì? Kết quả khi điều tra đến sau cùng, đều là tu pháp môn niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Vào lúc đó tôi giật thót cả người, vì sao có việc như vậy! Sau khi thâm nhập Kinh tạng thì không giống như trước, về trước tâm thô, tâm ý qua loa, cho nên từ đó về sau, tôi đọc Kinh rất là cẩn trọng. Tiến độ rất là chậm, thế nhưng rất có thọ dụng, mỗi ngày đều có chỗ ngộ. Chứng minh người xưa đã nói " đọc sách ngàn lần nghĩa kia tự hiểu", phải hiểu được ý sâu, trong Phật pháp không gọi là ý sâu, ý sâu là dùng ý thức thứ sáu, không dùng ý thức thứ 6, dùng trực giác, hiểu nó thì hiểu, thì tường tận rồi, không hiểu thì không cần đi lý giải nó, từng lượt từng lượt đọc qua, sau khi đọc qua mấy chục lần, thì bỗng nhiên hiểu được, đã hiểu được rồi, đọc qua vài trăm lần, lại có ý mới xuất hiện. Ý nghĩa trong Kinh, sâu rộng không cùng tận, tầng thứ đó, tầng thứ này sâu hơn tầng thứ kia, bạn chính mình có thể khế nhập. Bí quyết của khế nhập chính là buông bỏ, tâm địa thanh tịnh, tâm thanh tịnh một trần không nhiễm, bạn mới có thể vào sâu. Vì sao vậy? Phật giảng Kinh là từ tâm thanh tịnh mà lưu xuất ra, bạn không dùng tâm thanh tịnh thì không thể hội được. Phật giảng là dùng tâm bình đẳng mà giảng ra, khi chúng ta tâm không bình đẳng thì bạn không hiểu được lời nói của Ngài.

Cho nên nhất định phải dùng tâm thanh tịnh bình đẳng giác, bạn mới chân thật có thể thể hội được Phật Bồ Tát là gì? cổ thánh tiên hiền là gì? Ngay trong mắt của tôi, thánh nhân lão tổ tông của chúng ta hoàn toàn giống như Phật Bồ Tát. Tôi đã từng hỏi qua lão sư Lý, tôi nói Nghêu Thuấn Vũ Thương, Khổng Tử lão tử có phải là Phật Bồ Tát hóa thân đến hay không ? Lão sư Lý nghe rồi, cười lên thật to, ông nói trên lý thì nói được thông, trên sự thì không có chứng cứ. Đúng vậy, trên lý là nói được thông, trên sự thì các Ngài không có nói ra, không phải là giả. Cho nên chúng ta phải khẳng định, những người cổ xưa này chân thật có trí tuệ, vì sao vậy? Dựa vào cái gì? Dựa vào tâm địa của họ thanh tịnh, họ không có phiền não, họ vạn duyên buông bỏ, họ không có lo lắng, họ không có áp lực, hạng người này liền sanh trí tuệ. Chúng ta người thời hiện đại thì không được, phiền não quá nhiều, vọng niệm quá nhiều , áp lực quá nặng, cho nên chỉ sanh ra phiền não mà không sanh trí tuệ, làm sao có thể sánh được với người xưa chứ! Cho nên nhất định phải hiểu được cái đạo lý này. 

Nhận biết Phật, khẳng định thế giới Tây Phương Cực Lạc thật có, vì sao vậy? Tâm của chúng ta sanh ra, có quan hệ mật thiết với chúng ta như vậy. Từ tự tánh của ta biến hiện ra, đúng như đã nói "duy tâm tịnh độ, tự tánh Di Đà", là một không phải hai, vậy làm sao mà không vãng sanh! Vãng sanh Tịnh Độ là khẳng định, vấn đề chính ở bạn có muốn đi hay không? Đó là quê hương của chúng ta không phải nơi nào khác, một chút chướng ngại cũng không có. Cho nên chúng ta khẳng định niệm Phật là đệ nhất thiện. Niệm như thế nào? Tôi lấy Kinh nghiệm của 60 năm, niệm 1 câu A Di Đà Phật thì viên mãn rồi. Thế nhưng bạn có thể niệm, bạn nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa của câu A Di Đà Phật là gì, bạn mới có thể tương ưng, cổ đức đã nói "1 niệm tương ưng, 1 niệm Phật , niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật ", không tương ưng không được. 

Vậy phải tương ưng, giải thích danh hiệu chính là 48 nguyện, 48 nguyện của A Di Đà Phật, giải thích 48 nguyện chính là bổn Kinh Vô Lượng Thọ này. Giải thích bổn Kinh Vô Lượng Thọ này chính là "Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh", giải thích Kinh Hoa Nghiêm, chính là một bộ "Đại Tạng Kinh" lưu truyền đến Trung Quốc. Toàn bộ “Đại Tạng Kinh” là giải thích Hoa Nghiêm Kinh, Hoa Nghiêm là giải thích cho Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ là giải thích cho 48 nguyện, 48 nguyện là giải thích cho danh hiệu A Di Đà Phật. Bạn liền biết được câu danh hiệu này là đại biểu cho toàn thể Phật pháp, nghĩa lý trong đó sâu rộng vô tận không có bờ mé. 

Chúng ta nói tu thiện tích đức, câu danh hiệu này là đại thiện đại đức, thiện đức không có bờ bến, niệm câu danh hiệu này là niệm hết tất cả. Bạn liền biết được niệm một câu này, cho dù bạn hiểu hay không hiểu. Hiểu thì niệm có 10 phần hiệu quả, không hiểu thì có 1- 2 phần hiệu quả. Cũng rất cừ khôi, cũng rất khó được rồi. Nếu không hiểu, chân thành mà niệm, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Đó là gì vậy? Những cụ ông, cụ bà không biết chữ ở dưới quê, những người đó mới thật cừ khôi. Thầy của tôi, cư sĩ Lý Bỉnh Nam đã nói với tôi rất nhiều lần, ông muốn học những người ngu này, học cả đời mà cũng học không giống. Họ ngu, ngu ở chỗ nào vậy? Họ ngu ở chỗ không có ý niệm, bạn dạy họ, họ liền tin tưởng, họ cả đời không hề thay đổi, cho nên thành tựu của họ luôn luôn là không thể nghĩ bàn. Hôm nào ra đi thì họ chính mình biết được, thậm chí 3 tháng trước đã biết được rồi. An vui tự tại, một chút âu lo cũng không có, đi quanh một vòng thăm viếng bạn bè thân thích, sau cùng, cáo biệt một lúc, chính họ cũng không nói, người ta cũng không biết, đến sau khi đi rồi, mọi người mới bỗng hiểu ra, ông ấy đã đến cáo biệt rồi. Thật tự tại, khi ra đi không bị bệnh, không đau khổ. Cho nên nói bạn không tin, tôi ngày nay tin tưởng, 30 năm trước tôi không tin, hiện tại một lòng 1 dạ tin tưởng, vì sao vậy? Tường tận rồi, chưa tường tận thì có hoài nghi, tường tận rồi thì hoài nghi không còn nữa. Các vị không niệm Phật, tôi niệm Phật, tôi thật làm. 

Câu hỏi số 3:
Nói không ăn không uống không ngủ, một mạch niệm Phật đến cùng có thể vãng sanh hay không? Pháp sư Oánh Kha là một điển hình, vẫn là người người có thể bắt chước làm theo việc này hay không?
HT Tịnh Không trả lời: Không ăn không uống không ngủ, tôi cảm thấy không cần thiết như vậy, trừ khi bạn chính mình cũng giống y như Oánh Kha vậy, phát hiện chính mình đã tạo ra tội nghiệp địa ngục, sợ vào địa ngục chịu những khổ nạn đó, bạn phát ra cái tâm dõng mãnh, chính là cầu A Di Đà Phật đến giúp bạn, không có thời gian ăn cơm, thời gian uống nước, thời gian ngủ nghỉ, vậy thì được, tôi tin tưởng pháp sư Oánh Kha không phải là trường hợp đặc biệt, người người đều có thể làm được. Thế nhưng, thông thường chúng ta thì không cần như vậy, thông thường chúng ta tiếp nhận phương pháp dạy bảo của lão Hòa Thượng Đế Nhàn thì tốt nhất. Lão Hòa Thượng dạy người niệm Phật, không hoài nghi không xen tạp không gián đoạn, niệm đến cùng, niệm mệt thì nghỉ ngơi, muốn ăn thì ăn một ít. Không nên ăn nhiều, ăn nhiều thì thế nào vậy? Ăn nhiều thì sẽ hôn trầm. Không ăn thì sao? Không ăn thì tâm hoang mang, đều không phải là hiện tượng bình thường. Cho nên người chân thật dụng công thì giữ gìn như thế nào? Không đói không no, vậy thì tốt nhất, tinh thần của bạn luôn luôn có thể phấn chấn. Cho nên, người tham thiền trong tông môn chủ trương ăn ít nhưng chia thành nhiều bữa, thực tế khi đói thì ăn một chút điểm tâm, họ 1 ngày không chỉ ăn ba bữa, họ ăn ít nhưng ăn nhiều lần. Cho nên vậy thì chính xác, không có thể lực tốt, không có tinh thần tốt, bạn học thì rất khó, bạn khó học được thứ gì, nếu ngồi đó mà ngủ gục, thì không bằng đi ngủ, ngồi đó mà ngủ gục, thì thật là khó chịu, nằm xuống ngủ thì thật thoải mái. 

Việc này lão sư Lý thường hay nói với chúng tôi, sao khổ vậy! Vẫn có người học không đến nơi, dù họ ngồi đó là tọa thiền nhưng kỳ thật là ngồi ngủ gục! Bạn thấy họ ngồi ở đó là ngủ gục, khi ngủ gục, cúi đầu xuống, khom cái lưng, nhìn dáng vẻ thật khó coi, ông nói tại sao không nằm trên giường ngủ mà làm vậy, trông thật tội nghiệp. Người chân thật tu thiền định không phải vậy, ngồi thân thẳng đứng như cây viết, không phải uốn cong cái lưng, thẳng như cây viết, đây chân thật là có sức định. Người ta cả đời, ngồi mười ngày, ngồi nửa tháng, đó là chân thật ở trong trạng thái định, tuyệt nhiên không phải ngồi ngủ gật. 

Lão Hoàng Niệm Tổ cùng học thiền với lão Hòa Thượng Hư Vân, học Mật với Cống Cát Hoạt Phật, ông nói với tôi, thời nay không có thiền, không những thiền không có khai ngộ, ngay đến được định cũng không có, lão Hòa Thượng Hư Vân chưa khai ngộ, chỉ được định, cho nên bạn liền biết được khó cỡ nào! Chưa khai ngộ được định, vẫn không bằng một người vãng sanh thế giới Cực Lạc hạ phẩm hạ sanh, không thể so được. Vì sao vậy? Sanh đến thế giới Cực Lạc là Bồ Tát bất thối. Bạn muốn tu đến Bồ Tát bất thối, thông thường mà nói phải một đại A Tăng Kỳ kiếp, phải thời gian dài đến như vậy, không phải là việc dễ dàng! Cho nên chúng ta phải lão thật, lão thật là gì? Nhận biết thân phận của chính mình, biết được căn tánh của chính mình. Không làm được, thì không nên miễn cưỡng mà làm, miễn cưỡng thì thế nào? Không thể thành tựu. 

Pháp môn của Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn, ta có thể đổi một pháp môn. Vì sao đổi? Căn tánh của ta, tình hình đời sống hiện tiền của ta rất dễ tu, không chướng ngại, vậy thì thành tựu rất dễ, hà tất phải tìm phiền phức cho chính mình? Cho nên với cách niệm Phật thì phương pháp của lão Hòa Thượng Đế Nhàn là rất tốt. Nếu như công việc chân thật rất bận rộn cũng có thể rút ra chút thời gian để tu hành, đó chính là khi tôi ở Singapore đề ra phương pháp mười niệm, có hiệu nghiệm, phù hợp với nguyên tắc mà tịnh tông đưa ra. Tôi đưa ra phương pháp tập niệm này là 1 ngày 9 lần, 1 lần đại khái chỉ có 1 đến 2 phút, chính là niệm 10 câu Phật hiệu, niệm 10 câu A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật…trong 10 câu Phật hiệu này không có hoài nghi, không có xen tạp, đó gọi là tịnh niệm. 10 câu dễ niệm, nếu khi nhiều thì vọng niệm khởi lên, 10 câu vọng niệm không dễ xen tạp vào. Sáng sớm khi thức dậy niệm 10 câu, sau khi rửa mặt xong, có tượng Phật thì đối mặt với tượng Phật, không có tượng Phật thì mặt quay về hướng tây, niệm 10 niệm chỉ 1-2 phút, không có việc gì có thể chướng ngại, trước khi đi ngủ, khi xúc miệng xong cũng niệm 10 câu, sớm tối 2 lần. Trong 3 bữa cơm, trước khi ăn cơm, mọi người niệm chú cúng dường, ta niệm 10 câu A Di Đà Phật, bạn xem như vậy là được 5 lần rồi. Còn lại 4 lần, sáng sớm khi đi làm chưa vào ca, trước tiên niệm mười câu Phật hiệu, rồi xử lí công việc, tan ca cũng là như vậy, sau khi tan ca thâu gọn sạch sẽ, niệm 10 câu Phật hiệu, rồi mới rời khỏi vị trí của mình, buổi sáng 2 lần, buổi chiều 2 lần, 1 ngày 9 lần, bạn chỉ cả đời như vậy, không gián đoạn ngày nào, khẳng định có hiệu quả. Việc này dễ làm, khi làm bất cứ nghề nghiệp gì cũng không bị chướng ngại. 

Năm xưa tôi đề xướng cách niệm này ở Hoa kì, ở Nam Dương, có rất nhiều người gửi thư đến cho tôi, gọi điện thoại cho tôi, nói rất có hiệu quả, vô cùng cảm tạ, vô cùng cảm ơn. Một ngày chín lần là gì? Là nhắc nhở bạn, trong lòng của bạn thường hay có Phật, cái điểm này rất quan trọng, tâm của ta chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là tâm ta. Chân thật khế nhập được cảnh giới rồi, A Di Đà Phật liền khởi tác dụng. Có tác dụng gì? Ta nhìn thấy tất cả người nào cũng là A Di Đà Phật, lỗ tai nghe được tất cả âm thanh đều là A Di Đà Phật, sáu căn tiếp xúc với 6 trần phải đều là A Di Đà Phật, vậy thì bạn vãng sanh tuyệt đối không phải là cõi đồng cư, không phải cõi Phương Tiện, bạn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc sanh cõi Thật Báo, vì sao vậy? Chúng ta cùng với Phật A Di Đà thân tâm giao nhau thành một thể, vậy thì còn gì bằng! Có thể làm được, không phải không làm được, đây là việc của chính mình, không phải cầu người khác. Cho nên chúng ta không chủ trương không ăn không ngủ, chúng ta không nên chủ trương như vậy, chúng ta hiện tại cảm thấy hoàn cảnh này, phương pháp của lão Hòa Thượng Đế Nhàn rất khế cơ, chúng ta đề xướng cách 10 niệm này cũng rất là khế cơ. 

Câu hỏi số 4: Phía sau câu hỏi thứ tư, nếu như tai nạn của 2012 là sự thật, vậy thì thực tiễn “Đệ Tử Quy” cùng văn hóa truyền thống khẳng định không còn kịp, gốc cũng không cắm được tốt, công phu niệm Phật lại không thành khối, chỉ dựa vào chân tín thiết nguyện cầu vãng sanh, có thể vãng sanh hay không ? 
HT Tịnh Không trả lời: Có thể, ai nói vậy? Đại sư Ngẫu Ích đã nói trong yếu giải , đại sư Ấn Quang đã làm chứng minh cho chúng ta ở trong Văn sao, chúng ta phải tin tưởng. Có cơ sở lí luận, vì sao vậy? Bởi vì bạn tương lai là Phật. Pháp môn Tịnh Độ, nguyên tắc chỉ đạo tối cao là ở trong "Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh", nội dung của Quán Kinh là nói lý luận cùng phương pháp, phương pháp là 16 phép quán, lý luận chính là "thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật". Hay nói cách khác , Phật thừa nhận bạn tương lai là Phật ,bạn hiện tại muốn làm Phật, làm gì có việc không có thể thành Phật chứ! Cho nên trên Kinh A DI ĐÀ, khi lâm chung 1 niệm đến 10 niệm đều có thể vãng sanh. Trong "Khoa Chú" hiện tại chúng ta đang học đến 48 nguyện phẩm thứ 6, 48 nguyện vẫn chưa có học xong, thế nhưng nguyện thứ 18,19,20,21 bốn nguyện này học xong rồi, thì nói đến vấn đề này, đại khái chúng ta dùng mười mấy giờ đồng hồ để nói rõ sự việc này, tạo tội ngũ nghịch thập ác, ngũ nghịch là giết cha mẹ, giết lão sư, còn bao gồm phá hòa hợp tăng, hủy báng Phật pháp. Nguyện thứ 18 giảng rồi, nhưng trừ ngũ nghịch thập ác và hủy báng Phật pháp, thế nhưng đọc trong chú giải có dẫn lời của tương truyền Đại sư Thiện Đạo là Phật A Di Đà tái sanh, người Nhật Bản rất tin tưởng, ở Nhật Bản chùa Thiện Đạo đặc biệt nhiều, bạn vừa thấy chùa Thiện Đạo thì đó là đạo tràng Tịnh Độ, đắp tượng của đại sư Thiện Đạo còn to hơn tượng Phật, người Nhật Bản tôn trọng lão sư, cho nên đại điện của Phật rất lớn, tượng Phật rất nhỏ, đại điện của lão sư không lớn như đại điện của Phật như vậy, thế nhưng tượng của tổ sư lớn hơn tượng Phật , họ rất là tôn trọng đối với lão sư. 

Đại sư Thiện Đạo đã nói, ý nghĩa mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, nói ngũ nghịch mười ác, hủy báng Phật pháp không thể vãng sanh, đó là bởi vì cái tội này là tội cực trọng, khuyên bạn đừng tạo, ý nghĩa ở chỗ này, không phải chân thật không thể vãng sanh. Người tạo loại trọng tội này, chỉ cần họ thừa nhận họ sai lầm. Họ sám hối vẫn là có thể vãng sanh. Vãng sanh đến phẩm vị nào? Việc này vẫn là gặp duyên không như nhau, luôn luôn là hoạt bát linh động, không phải là khô cứng. Người Trung Quốc thường nói: lãng tử hồi đầu vàng không đổi. Người ác này, không có việc ác nào không dám làm, khi vừa quay đầu họ là 1 người rất tốt, họ mãi mãi sẽ không làm việc xấu, họ sẽ không có ý niệm xấu, loại người này vẫn tốt! Phật nói rõ chân thật hồi đầu thì được, không có vấn đề, chỉ sợ cái gì? Chỉ sợ bạn không chịu quay đầu. Còn có 1 số người giữ thể diện, sợ mất thể diện, nếu nói ra lỗi lầm của chính mình đã làm thì cảm thấy hổ thẹn, rất e ngại nói ra trước mặt mọi người và đám đông, đây chính là thích giữ thể diện, không chịu quay đầu, vậy thì không được, đó là giả, đó không phải là chân thật. Chân thật, chân thật sám hối, không ai mà không vãng sanh, cho nên chúng ta vạn nhất không nên xem thường những người tạo tội nghiệp này, vì sao vậy? Họ vừa quay đầu sám hối, có thể phẩm vị cao hơn chúng ta nhiều, chúng ta đến thế giới Cực Lạc kém xa hơn so với họ, việc này nhất định phải cẩn thận, đối với tất cả mọi người phải như là Phật, xem thành Bồ Tát, tạo tác tội ác cũng không dám khinh thường. Then chốt là ở 1 niệm sau cùng của họ, một niệm sau cùng là chân thật sám hối, một niệm sau cùng là chân thật niệm Phật, vậy thì phẩm vị đó không thể nghĩ bàn, thế giới Cực Lạc thảy đều là không thể nghĩ bàn, mọi thứ đều không thể nghĩ bàn, chúng ta phải nhận biết rõ sự thật này. 


Người giảng: 
Lão Pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 08 tháng 02 năm 2012.
Địa điểm: Hiệp hội giáo dục Phật Đà Hong Kong.
Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Phật tử Tịnh Thái

No comments:

Post a Comment