TỰ TÁNH TAM BẢO -
VIÊN NGỌC MINH CHÂU
TKN Thích Nữ Chân Liễu
11.11.11
Các
vị Tổ khi xưa tu đắc đạo nhưng thân còn tại thế. Vì muốn hóa độ dễ dàng
hơn, các Ngài thường vẽ ra hình tượng các vị Bồ Tát, để diễn tả các
pháp tu, để khuyên dạy và giáo hóa chúng sanh. Người thế gian nếu chấp
những hình tượng Bồ Tát đều là linh tượng, thánh tượng theo thần quyền,
có thể ban phước giáng họa, cầu nguyện van xin, thì không lợi ích gì cho
con đường tu tập bản thân. Chẳng những vậy, điều cố chấp này còn làm
cho con người yếu hèn, sanh tâm ỷ lại, thêm tâm ích kỷ, ham muốn lợi
riêng cho bản thân mình, gia đình mình. Rồi từ đó, con người sống cuộc
đời với tâm tranh chấp hơn thua, đấu tranh và đau khổ triền miên.
Khi
vô thường đến cướp mất người thân yêu, hay là chính bản thân đứng trước
cửa tử, lúc bấy giờ tâm con người bất an, đau đớn, hoảng loạn, kêu cứu,
giờ phút đó không biết rơi vào cảnh giới xấu tốt nào, địa ngục hay
thiên đàng, Phật ở đâu, Bồ Tát ở đâu, sao không thấy? Làm sao giữ được
bình tĩnh để ra đi an lành trong giờ phút đó? Câu hỏi này chúng ta cần
phải tìm cho được giải đáp ngay bây giờ, trong lúc thần thức còn sáng
suốt, tâm trí còn ổn định. Sanh tử sự đại. Đó mới là sự cần thiết quan
trọng bậc nhất.
Trong
các chùa chiền, tự viện, tu viện, tôn tượng trang nghiêm được an trí
bên cạnh Đức Phật Bổn Sư Thích Ca, vị Bồ Tát thân đắp cà sa, hình tướng
một vị tăng xuất thế, tay phải cầm tích trượng, tay trái nâng viên ngọc
minh châu tỏa sáng. Đó là hình ảnh tôn tượng đại bi, đại nguyện, đại
thánh, đại từ, bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài phát đại nguyện: Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Tâm nguyện Bồ Tát không muốn an hưởng Niết Bàn khi thấy chúng sanh còn quá nhiều đau khổ.
Địa: sâu dầy, chắc cứng, kiên cố, sâu kín, tối tăm.
Tạng: chứa đầy đủ, không hạn định, không đo lường.
Trong
đạo Phật, Địa Tạng hàm ý đại địa bao la, tượng trưng cho tạng thức và
căn tánh con người có thể dung chứa tất cả thiện ác, tốt xấu, có chân
thật, có giả dối. Tâm con người có địa ngục và tâm con người cũng có
niết bàn.
HÌNH TƯỚNG TRANG NGHIÊM VỊ TĂNG XUẤT THẾ
(TỰ TÁNH TĂNG BẢO - THANH TỊNH)
Tinh
thần mạnh mẽ vô úy, lý tưởng vị tha của một vị hình tướng xuất gia,
luôn dấn thân để cứu độ chúng sanh đang chịu khổ cảnh địa ngục kinh
hoàng bởi vô minh. Hình ảnh thân đắp cà sa, gương mặt đôn hậu từ ái,
lòng đại từ đại bi cao cả, là tấm gương sáng cho tất cả chúng sanh,
tượng trưng cho “Tăng Bảo”, một trong ba ngôi tam bảo quí hiếm. Tăng bảo
là người tu xuất gia, là kho chứa châu báu diệu pháp, mồi ngọn đuốc từ
bi trí tuệ nơi Đức Thế Tôn, đem lợi lạc cho chúng sinh, mở sáng trí tuệ
cho người tu học Phật.
Mặc
dù sống trong nhà phiền não, nhưng người xuất thế tục gia được người
đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường vượt qua rừng u minh tăm tối. Tâm
từ bi độ lượng bao dung của người tu, như thửa ruộng hạnh phúc an
vui cho cuộc đời. Những lời thuyết pháp của Tăng bảo có sức mãnh liệt
phá tan những vọng tâm, vọng tưởng sâu kín tận trong tâm thức của những
người đang mê ngủ với thú vui tạm bợ, làm cho họ thức tỉnh.
Thân
đắp cà sa có ý nghĩa kham nhẫn, sống đời phạm hạnh thanh tịnh và còn là
sức mạnh của giới pháp, ngăn ngừa những tội lỗi của ác pháp. Chiếc áo
cà sa che chở cho người tu trong cuộc sống xã hội đầy tham vọng, sân hận
và si mê. Người xuất thế tục gia có nghị lực mạnh mẽ phát triển các
thiện pháp, tự giải thoát cho bản thân, phát tâm hạnh Bồ Tát vì người,
không phải chuyện dễ dàng ai cũng làm được.
Trong 37 phẩm trợ đạo, đức Phật dạy người tu cần phải có sức mạnh của Ngũ Căn (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ), gọi là “Ngũ Lực” gồm có:
1. Tín Lực: Sức mạnh của sự tin tưởng vào chánh pháp
không thối chuyển.
2. Tấn Lực: Sức mạnh của sự tinh tấn, quyết tâm
thành tựu phạm hạnh trên đường tu.
3. Niệm Lực: Sức mạnh của tâm niệm, luôn ghi nhớ
xa rời điều ác, giữ giới trong sạch.
4. Định Lực: Sức mạnh của sự quán sát tâm và tập trung vào thiền định, an nhiên tự tại.
5. Tuệ Lực: Sức mạnh của sự sáng suốt, trí tuệ mạnh mẽ
đi đến bờ giác ngộ.
Tu
là ở nơi nội tâm có chánh tín sáng suốt và tư duy thanh tịnh, không
phải ở hình tướng bên ngoài. Con người dù thân còn tại gia nhưng tâm
xuất gia đều có thể thực hành “Ngũ Lực” mạnh mẽ và phát hạnh nguyện Bồ
Tát như người xuất gia đắp y giải thoát vậy.
Tu
là noi theo hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng, thấy được trong tâm địa con
người có nghiệp lành, có nghiệp dữ, có tốt có xấu, có địa ngục, có niết
bàn và có tự tâm tự tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh. Từ đó có thể tự tu, tự
giác ngộ giải thoát cho chính bản thân và mọi người hữu duyên, như hạnh
nguyện của người xuất gia đắp y giải thoát vậy.
Người
biết cách tu, phải tự lực, tự giác ngộ, tự chuyển đổi tâm địa của chính
bản thân, đến khi hoàn toàn không một tạp niệm nào sinh khởi nữa, tức
là địa ngục đã trống không, lúc đó được giải thoát.
Đó chính là Tự Tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh, mà ai ai cũng có.
TÍCH TRƯỢNG PHÁ CỬA ĐỊA NGỤC: CHÁNH PHÁP
(TỰ TÁNH PHÁP BẢO - CHÂN CHÁNH)
Địa ngục không nhất thiết
khi con người chết đi mới thấy, địa ngục ở ngay cõi đời ngũ trược ác
thế. Địa ngục sanh ly tử biệt, địa ngục tù giam cấm cố tra tấn, địa ngục
bịnh hoạn, đau đớn, rên xiết. Thật là quá nhiều địa ngục ngay trước
mắt, con người phải chịu đền trả quả báo gây tạo ra nhiều đời nhiều kiếp
trong lục đạo luân hồi.
Bồ Tát Địa Tạng tay cầm Tích Trượng biểu dương sức mạnh của Chánh Pháp.
Năng lực của Tích Trượng hay Thiền Trượng là tâm đại từ đại bi của Bồ
Tát, dùng chánh pháp chuyển hóa tâm địa con người đầy tham lam, hận thù,
đố kỵ, si mê mù quáng có thể thức tỉnh kịp thời. Như những cánh hoa sen
nở thơm tho thanh khiết, kết tụ của sự giác ngộ giải thoát, hoa sen đều
từ gốc bùn tanh. Mục đích của người tu là phải có chánh pháp, hiểu tận
tường thấu đáo, thực hành đúng theo lời Phật dạy. Chánh pháp chính là
hiệu quả của “Tích Trượng phá cửa địa ngục”, là gậy vàng đập tan gông cùm xiềng xích trói buộc của địa ngục phiền não đau khổ.
Xuất
gia hay tại gia đều có thể tự tu theo pháp “lục độ ba la mật”, trang
nghiêm thân tướng với bố thí, trì giới, kham nhẫn, tinh tấn, thiền định
và trí tuệ, để đạt tự tánh “Pháp Bảo” chân chánh. Từ đó phát sanh trí
tuệ, phá vỡ cửa địa ngục vô minh nhiều kiếp luân hồi, tâm luôn hướng về
Bồ Tát hạnh để cứu khổ chúng sinh. Người tu theo con đường chân chính
của Đức Phật chỉ dạy, sống trong chánh pháp được an lạc hạnh phúc. Dù
chưa thành Phật, chưa an hưởng niết bàn, nhưng ở mọi cảnh giới đều có
thể tự độ và độ tha như hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng. Còn sống trên đời,
còn khỏe mạnh, con người nên dành nhiều thì giờ vào việc tu học, tự quán
sát, tự soi vào tâm địa chính bản thân, bởi vì Phật dạy thân người khó
được và được thân người là dễ tu nhất.
Trên
đường tu học đạo, con người thường phải trải qua nhiều chông gai thử
thách. Nào trùng độc, rắn dữ, cám dỗ của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực,
thùy), tiền của, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, ngày tháng rong
chơi, ai nói gì cũng tin, ai bảo làm gì cũng nghe theo. Những thứ tà
pháp đó dẫn dắt con người lạc vào con đường tà đạo đầy bóng tối tội lỗi.
Chánh pháp là cứu cánh tận diệt tội lỗi, dứt trừ thói quen tạo nghiệp
đua đòi và nhiều tật xấu tiềm ẩn trong kho tàng tâm thức con người. Khi
hiểu tận tường giáo pháp trong kinh điển, thực hành và suy ngẫm thấu đáo
lời Phật dạy, chuyển hóa tâm địa si mê sâu nặng trong tàng thức và tâm
ích kỷ mù quáng, con người thức tỉnh kịp thời, đó là giải thoát.
Đức Phật dạy: "Phải
luôn luôn quán chiếu nội tâm, thúc liễm vọng tâm vọng thức để tự giác
ngộ. Tâm làm chủ mọi hành động, mọi nghiệp lực. Tâm là địa ngục, tâm
cũng là niết bàn. Con người phải hứng chịu mọi quả báo an lạc hay đau
khổ do chính mình tạo ra. Chính tự thân mới có đủ năng lực đưa mình ra
khỏi địa ngục đau khổ mà thôi".
Địa
Tạng là tâm địa sâu kín chân thật của con người, khi thức tỉnh biết tàm
quí, sám hối tội lỗi, chấm dứt nghiệp dữ. Chuyển hóa, sửa đổi tâm niệm
xấu ác thành thiện lành chính là con đường giải thoát ra khỏi luân hồi,
tam đồ ác đạo: địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Hiểu được đạo lý như vậy thì
rất có lợi lạc cho việc tu nhân, tích phước, kiệm đức, cứu người giúp
đời. Người đời có thể che giấu được tâm tốt hay xấu với người xung
quanh, nhưng không gạt được tâm địa của chính mình.
Nhận
ra được chân lý sống, con người biết dùng chánh pháp làm phương tiện
thanh lọc những tư tưởng ô nhiễm bám vào tâm thức nhiều đời nhiều kiếp.
Thực hành lời Phật dạy, suy tư và tinh tấn phát huy định lực tự thân,
vững bước tu tập cho đến khi đạt được Tự Tánh “Pháp Bảo” chân chánh, thân tâm được tự tại giải thoát khỏi cảnh giới địa ngục.
VIÊN NGỌC MINH CHÂU - TRÍ TUỆ
(TỰ TÁNH PHẬT BẢO - SÁNG SUỐT)
Bồ
Tát Địa Tạng tay nâng viên ngọc Minh Châu, tượng trưng cho vật thể vô
cùng quí giá, ánh sáng của ngọc Minh Châu có thể soi sáng trong bóng tối
vô minh. Hình tượng Phật và Bồ Tát thường được diễn tả những tia hào
quang, chiếu sáng xung quanh đầu hay toàn thân, chính là nghĩa đó.
Theo
kinh sách, ánh sáng mang ý nghĩa là trí tuệ cao tột và sự sáng suốt
thanh tịnh của những bậc giác ngộ siêu phàm, các vị chứng chánh đẳng
chánh giác mới có được. Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Tổ đắc đạo được
người đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường, cứu giúp con người vượt qua
rừng u minh tăm tối. Con người nhờ được chỉ dẫn, cố gắng tìm cho ra viên ngọc Minh Châu tượng trưng cho trí tuệ sáng ngời của tự tâm.
Viên
ngọc Minh Châu tiêu biểu cho Phật tánh sáng suốt bất sanh bất diệt của
con người mà ai cũng có. Trí tuệ cũng do từ bản tâm tự lực con người
thanh tịnh mà được. Muôn pháp đều ở tại tâm, tùy tâm biến hiện.
Viên
ngọc Minh Châu là ý nghĩa sự tỉnh thức giác ngộ của Phật tánh có công
năng chiếu rọi vào sâu tận tâm địa của con người, vượt lên trên tất cả
sự thấy biết của phàm phu. Nhưng con người vì sống trong sáu cõi luân
hồi nhiều đời nhiều kiếp mê mờ nên không thấy được cái quí giá của tự
thân, cứ lo mãi tìm Phật, cầu Bồ Tát bên ngoài.
Người
có được ý chí mạnh mẽ, phát huy tinh thần tự giác, sống không chọn ăn
ngon mặc sang, không hơn thua tranh chấp, biết sợ nhân quả, hiểu rõ vô
thường, thân này trăm năm rồi cũng tan rã. Nếu tất cả những đòi hỏi của
con người biết tùy theo khả năng và chỉ là phương tiện cần thiết, biết
đủ cho cuộc sống, thì đạt được sự tự do và giải thoát khỏi sự trói buộc
ngục tù của lòng tham sân si.
“Phật Bảo” là một trong ba ngôi báu của Tự Tánh Tam Bảo sáng suốt nhất, là kho chứa đựng châu báu rạng ngời và cao cả nhất. Tinh
thần của đạo Phật không chấp nhận sự dựa dẫm, ỷ lại vào các hiện tượng
linh thiêng huyền bí hay cầu nguyện vì lòng tham lam và ích kỷ.
Người tu theo Phật phải có ý chí cương quyết phá tan mọi cám dỗ của danh
lợi, không bị sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trói buộc,
tìm cho được tự tánh “Phật Bảo” sáng suốt của tự tâm. Tâm mê là chúng sanh, tâm giác là Phật. Tâm mê ở địa ngục, tâm giác ở niết bàn.
Trong Kinh Kim Cang, Lục Tổ Huệ Năng ngộ được Tự Tâm Tự Tánh Tam Bảo sẵn có nơi tự thân mỗi người:
Bất ưng trụ sắc sanh tâm
Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Nghĩa
là: Con người không chấp giữ bất cứ việc gì cho riêng mình, đừng thấy
sắc sanh phân biệt thương ghét, đừng vì cao lương mỹ vị mất cảnh giác,
đừng vì lợi dưỡng sung sướng sanh tâm tham đắm. Không có chỗ dính mắc
thì không có địa ngục khổ đau phiền não, tâm được nhẹ nhàng an lành giải
thoát. Tâm “vô sở trụ” là tâm bồ đề, là ngọc Minh Châu sáng ngời trí
tuệ. Đó chính là Tự Tánh “Phật Bảo” sáng suốt, dù sống ở cảnh giới nào cũng được an vui tự tại.
Tóm lại, Bồ Tát Địa Tạng một tay nắm vững tích trượng (Từ Bi), một tay nắm chắc viên ngọc (Trí Tuệ), không phải là vị thần linh, và không có khả năng phá cửa địa ngục cứu chúng sanh theo nghĩa đen, bởi vì như vậy trái với luật nhân quả và hiểu như vậy kinh Bát Nhã gọi là vọng tưởng điên đảo.
Bồ Tát Địa Tạng biểu trưng Chánh Tín đủ hai yếu tố: Từ Bi và Trí Tuệ.
Người tu theo lời Phật dạy cần có chánh tín. Không có chánh tín, con
người sẽ dựa vào thần quyền, dựa vào tha lực, nghĩ rằng tiền của, tài
sản có thể mua chuộc được thần linh, và cầu nguyện Bồ
Tát Địa Tạng cứu vớt sau khi chết. Cho nên người mê tín không quan tâm
đến chánh pháp, suốt đời chỉ lo hơn thua tranh đấu, tạo nghiệp, chứ
không sớm biết tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Từ đó,
con người sẽ rơi vào trầm luân đau khổ của sanh tử không thoát ra được.
Người
sáng suốt biết quan tâm đến chánh pháp, sớm thức tỉnh, rốt ráo thanh
lọc thân tâm, vun bồi công đức, dụng công tu tập càng nhiều thì minh tâm
kiến tánh càng sớm đạt thành. Thấy được Phật Pháp Tăng tự tâm tức là hằng sống trong “Tự Tánh Tam Bảo”.
TỰ TÁNH PHẬT BẢO:
Viên
ngọc Minh Châu quí hiếm, là trí tuệ viên mãn, là Phật tánh sáng suốt,
có công năng phá trừ vô minh và đạt chánh đẳng chánh giác.
TỰ TÁNH PHÁP BẢO:
Tích
trượng Chánh Pháp nặng ngàn cân, là sức mạnh từ bi chân chánh vô úy của
các pháp, có công năng tự giải thoát khỏi địa ngục đau khổ của thân
tâm.
TỰ TÁNH TĂNG BẢO:
Tướng
xuất gia và Tâm thanh tịnh. Tuy sống tại thế gian, nhưng Tâm xuất gia,
hành Bồ Tát đạo, tự độ độ tha, chính là các vị chân tu thật học, một
lòng không thối chuyển.
Khi mê mờ: Chúng con khổ - nguyện xin cứu khổ.
Khi giác ngộ: Chúng con khổ - nguyện xin tự độ. []
NAM MÔ U MINH GIÁO CHỦ BỔN TÔN
ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT.
TKN Thích Nữ Chân Liễu
No comments:
Post a Comment