03 June 2012

Tứ y pháp



- Tứ y pháp bao gồm: Y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh.

  1.   Y pháp bất y nhân: nghĩa là y theo giáo pháp, chẳng y theo theo người giảng Pháp. Phật pháp là chân lý, quý giá và khó gặp, vì thế không nên đối chiếu, tỵ hiềm nơi tư cách người nói pháp để rồi bỏ lỡ cơ hội nghe pháp, tự thân mất sự lợi lạc. Cứ y theo giáo pháp của Phật mà tu hành, không mù quáng chỉ y theo người giảng Pháp cho mình. Một khía cạnh khác, y pháp bất y nhân có nghĩa là y chỉ vào Pháp tánh tức Phật tánh, không y chỉ vào người (nhân) vì nhân à hữu vi tức vô thường, sanh diệt. Minh sư phải không lấy tự ngã làm trung tâm, không vì mình giảng Pháp mà khai mở cho chúng sanh con đường tự vào đạo, không để chúng sanh sùng bái, nhất nhất theo thầy mình, theo chùa mình.
  2. Y nghĩa bất y ngữ: là y theo nghĩa lý, không y theo ngôn ngữ văn tự. Phật thuyết pháp với ý nghĩa sâu xa nhằm biểu đạt và thể nhập chân lý. Ngôn ngữ, văn tự chỉ là công cụ diễn đạt Trung đạo đệ nhất nghĩa, giúp người tu nhận ra chân lý để hành trì và thân chứng, bởi thế không nên bám víu và quá cố chấp vào văn tự, vì “ngôn dĩ tải đạo” mà thôi. Minh sư tự mình không vướng mắc, chìm đắm vào văn tự, chữ nghĩa, triết lý cao siêu, vừa khai mở cho chúng sanh vượt qua câu nệ trên mặt chữ mà thâm nhập nghĩa lý vi diệu đằng sau những ngôn từ ấy.
  3. Y trí bất y thức: là y theo trí tuệ, không y theo vọng thức phân biệt. Chỉ có trí tuệ mới nhận chân được chân lý, thực tại còn vọng thức là thấy biết theo nghiệp, có tính tương đối và đa phần sai lầm. Chỉ có trí tuệ mới đầy đủ công năng quét sạch phiền não, thanh tịnh ba nghiệp. Còn thức dẫu thông minh, nhạy bén và lanh lợi đến đâu đi nữa cũng là sanh diệt, hư vọng và không đủ sức giác quán để chuyển hóa, diệt trừ phiền não. Vì vậy, “duy tuệ thị nghiệp” chính là phương châm tu học của hàng đệ tử Phật. Minh sư cũng phải tể nhập trí tuệ Thánh nhân, vô ngã đại trí, đồng thể đại bi ồi mới khai mở cho chúng sanh vượt qua những tri thức, nhận thức của mình mà thể nhận cái trí huệ đó.
  4. Y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh: là y theo các kinh điển liễu nghĩa, chẳng y theo các kinh điển không liễu nghĩa. Kinh điển được Phật tuyên thuyết tùy căn cơ chúng sanh nên có cao thấp, khác biệt. Dù mục tiêu cứu cánh vẫn là giải thoát sanh tử, song trên tinh thần phương tiện thì những kinh điển thuyết minh về con đường thể nhập Nhân thừa, Thiên thừa, v.v… được gọi là kinh bất liễu nghĩa (chưa nói hết ý nghĩa thâm diệu, toàn triệt của giáo pháp). Những kinh điển chỉ thẳng đến quả vị giải thoát viên mãn (Phật quả) là kinh liễu nghĩa. Người tu hướng về Vô thượng Bồ đề, tất nhiên phải y cứ vào kinh liễu nghĩa để hành trì nhằm thành tựu giác ngộ rốt ráo, thành Phật. Minh sư luôn vô niệm, vô tướng, vô trụ, không vì cái gì, không có cái gì, chỉ theo đó ăn cơm, mặc áo, sinh hoạt, tự lợi, lợi tha, tinh tấn không giải đãi.
(Kinh Đại Bát Niết Bàn)

No comments:

Post a Comment